Cơ hội cho sinh viên học thêm ngành Để hoàn thành một tiết lý thuyết sinh viên phải có 2 tiết chuẩn bị. Như vậy, cứ 30 tiết thảo luận trên lớp, bài tập, thí nghiệm hoặc 45-60 tiết thực tập, kiến tập, làm tiểu luận hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp được tính tương đương 1 tín chỉ. Một học phần sẽ có từ 2 đến 5 tín chỉ. Điểm mở là sinh viên có thể lựa chọn một số lượng tín chỉ nhất định để theo học trong một học kỳ. Mỗi sinh viên sẽ có một thời khoá biểu riêng. Tuỳ theo từng trường, thông thường trong một học kỳ quy định số tín chỉ tối đa là 36 và tối thiểu là 21 và tuỳ theo ngành học tổng số tín chỉ từ 283-289. Sau mỗi học kỳ chính, căn cứ vào số học phần sinh viên đăng ký trong năm học để xem xét cho năm học sau. Tính từ đầu khoá học, những sinh viên đã có tối thiểu 60% số tín chỉ tích luỹ quy định của ngành đang học và có điểm trung bình chung tích luỹ từ 7,0 trở lên được đăng ký học thêm ngành chuyên môn ở cùng nhóm ngành tại trường đang học. Có điểm trung bình chung tích luỹ từ 8,0 trở lên được đăng ký học thêm ngành chuyên môn ở trường đại học hoặc cao đẳng khác. Thời gian học ngành chuyên môn thứ hai được tính trong tổng thời gian học tối đa quy định cho sinh viên theo học chế tín chỉ. Sinh viên được học thêm ngành chuyên môn được bảo lưu kết quả học tập của những học phần có số tín chỉ tương đương hoặc lớn hơn. Như vậy, bên cạnh mở cơ hội cho sinh viên học thêm một ngành học khác, hình thức đào tạo này rất linh hoạt cho người học, tuỳ theo điều kiện mà có thể điều chỉnh được lịch học. Trường Đại học xây dựng Hà Nội có hầu hết các ngành đã áp dụng học chế tín chỉ. Có khoảng 50% số sinh viên của trường tốt nghiệp sớm một học kỳ, có 4 sinh viên Iên lớp sớm 1 năm học. Trên lý thuyết, sinh viên có thể ra trường sớm tới 1,5 năm. Khó khăn trong quản lý Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức đào tạo này cho chương trình hiện nay chỉ có thể tính được trên đầu ngón tay. Ở miền Bắc trường Đại học xây dựng là một trong hai trường “hiếm hoi” thực hiện đào tạo theo tín chỉ (cùng với trường Đại học Thăng Long). Trường đại học Đà Lạt cũng từng áp dụng hình thức này những đã ngừng do không đủ điểu kiện. Phần lớn các trường đại học, cao đẳng đều cho rằng rất khó khăn trong khâu quản lý khi thực hiện hình thức đào tạo tín chỉ. Chỉ tính riêng việc đăng ký tổ chức các lớp học đầu mỗi học kỳ phải nạp và xử lý rất nhiều dữ liệu, trong đó có không ít những phát sinh từ mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, các trường phải có cố vấn học tập tại các khoa, giúp sinh viên lựa chọn, đăng ký các học phần theo đúng quy định, phù hợp với điều kiện, khả năng. Và không phải lúc nào nhà trường cũng thoả mãn được nhu cầu người học như trường Đại học xây dựng quy định phải có ít nhất 15 sinh viên mới “dựng” lên một lớp môn học. Để thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ cần phải đảm bảo cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, điều mà nhiều trường đại học, cao đẳng ở ta chưa đáp ứng được. Theo PGS.TS. Bùi Anh Tuấn, Trưởng khoa quốc tế Trường KTQD: “Việc áp dụng học chế tín chỉ đến nay chưa phù hợp vì còn nhiều bất cập trong hệ thống quản lý. Hệ thống học chế tín chỉ quản lý theo môn học còn hệ thống quản lý của các trường cao đẳng, đại học hiện nay theo trường, khoa, lớp”. Đào tạo theo tín chỉ cũng còn phải tính đến việc quản lý các lớp học cũng như việc tổ chức các hoạt động tập thể. Thực tế, lớp học môn học thường xuyên “phá vỡ” các lớp học quản lý. Phải tìm một thời gian thích hợp, lớp quản lý mới có thể “gom” đủ các thành viên cho các hoạt động đoàn và hoạt động tập thể. Như vậy, hình thức đào tạo theo tín chỉ có nhiều điểm tiến bộ nhưng cũng đã đặt ra những đòi hỏi mà các trường không dễ thoả mãn được.